Tiểu sử Svāmī Vivekānanda

Sinh ra và thời thơ ấu

Narendranath Dutta (thường gọi tắt là Narendra và Naren)[1] sinh ra ở Shimla Pally, Kolkata, Tây Bengal, Ấn Độ vào ngày 12 tháng 1 năm 1863 như là con trai của Viswanath Dutta và Bhuvaneswari Devi. Mặc dù còn nhỏ tuổi, cậu bé đã lộ rõ sự khôn ngoan và trí nhớ tốt. Cậu thực tập thiền định từ tuổi rất bé. Khi tại trường, cậu học giỏi, cũng như chơi được nhiều trò thể thao. Cậu tổ chức một đoàn hát nghiệp dư và một gymnasium và học các mônđánh kiếm, đánh vật, đua thuyền và các môn thể thao khác. Cậu cũng học các chơi nhạc cụ và thanh nhạc. Cậu là lãnh đạo trong nhóm các bạn bè. Ngay từ khi còn nhỏ tuổi, cậu thắc mắc về sự đúng đắn của các phong tục mê tín dị đoan và sự phân biệt dựa trên giai cấp (caste) và tôn giáo.

Vào năm 1879, Narendra vào trường Cao đẳng Presidency, Calcutta để học các lớp cao hơn. Sau một năm, cậu gia nhập Cao đẳng Hội thánh Scotland, Calcutta và học tập ngành triết học. Trong khóa học, cậu học logic phương tây, triết lý phương tây và lịch sử của các quốc gia châu Âu.

Các câu hỏi bắt đầu nổi lên trong đầu óc non trẻ của Narendra về Thượng đế và sự hiện hữu của Thượng đế. Điều này làm cậu liên hệ với Brahmo Samaj, một phong trào tôn giáo quan trọng vào thời gian đó, được lãnh đạo bởi Keshab Chandra Sen. Nhưng những lời cầu nguyện của giáo đoàn của Samaj và những bài hát thánh ca không làm thỏa mãn lòng khao khát của Narendra để nhận ra được Thượng đế. Cậu hỏi các lãnh tụ của Brahma Samaj liệu là họ đã thấy Thượng đế bao giờ hay chưa. Cậu không bao giờ có câu trả lời thỏa đáng. Đúng vào thời gian này Giáo sư Hastie của Cao đẳng Hội thành Scotland bảo cậu tìm đến Sri Ramakrishna ở vùng Dakshineswar.

Với Ramakrishna

Narendra gặp Ramakrishna lần đầu tiên vào tháng 11 năm 1881. Cậu hỏi Ramakrishna cùng một câu hỏi cũ, liệu là ông đã nhìn thấy Thượng đế hay chưa. Câu trả lời ngay lập tức từ Ramakrishna là, "Rồi, ta thấy Thượng đế, cũng như ta nhìn thấy con nơi này, chỉ ở một mức độ rất mạnh hơn mà thôi." Narendra kinh ngạc và bối rối. Cậu có thể cảm thấy lời nói của ông ta chân thật và thốt ra từ chiều sâu của kinh nghiệm bản thân. Cậu bắt đầu ghé thăm Ramakrishna thường xuyên.

Mặc dù Narendra không thể chấp nhận Ramakrishna và những điều ông ta nhận thấy, cậu không thể không chú ý đến ông. Luôn luôn là trong bản chất của Narendra là phải thử nghiệm bất kì điều gì một cách cặn kẽ trước khi cậu có thể chấp nhận nó. Cậu thử Ramakrishna đến mức tối đa, nhưng vị thầy kiên trì, vị tha, khôi hài, và đầy tình thương. Ông không bao giờ yêu cầu Narendra từ bỏ suy luận, và ông đương đầu với tất cả các tranh luận của Narendra và các thử nghiệm của cậu với sự kiên nhẫn vô hạn. Theo thời gian, Narendra chấp nhận Ramakrishna, và khi cậu chấp nhận, sự chấp nhận của cậu là hoàn toàn thành tâm. Trong khi Ramakrishna chủ yếu dạy thuyết nhị nguyên và Bhakti cho các đệ tử còn lại, ông dạy cho Narendra môn Advaita Vedanta, triết lý nhất nguyên.

Cha của Narendra đột ngột qua đời năm 1884, khiến gia đình ông bị phá sản; chủ nợ liên tục đến đòi nợ, và những người bà con dọa đuổi gia đình ông khỏi quê hương. Narendra, từng là con một gia đình có của ăn của để, trở thành một trong những sinh viên nghèo nhất cao đẳng.[2] Ông cố kiếm việc không được và nghi vấn sự hiện hữu của Thượng đế,[3] nhưng dần tìm được sự an ủi nơi Ramakrishna và đến thăm Dakshineswar nhiều hơn.[4] Trong suốt thời gian học tập năm năm dưới sự hướng dẫn của Ramakrishna, Narendra đã được chuyển hóa từ một cậu bé hiếu động, tò mò, không kiên nhẫn thành một người đàn ông trưởng thành.

Có lần Narendra cung thỉnh Ramakrishna đi khấn nữ thân Kali gia hộ cho tài chính gia đình ông ổn định lại. Ramakrishna bảo Narendra nên tự đi khấn. Theo lời thầy Ramakrishna, Narendra đến đền 3 lần, nhưng khi đến đền ông không thể cầu điều gì liên quan tới những ràng buộc trần thế. Cuối cùng ông cầu xin sự thấu hiểu và quan tâm từ nữ thần.[5][6][7] Narendra dần dần trở nên xuất thế, sẵn sàng từ bỏ mọi thứ để tìm ra Thượng đế, và nhận Ramakrishna làm đạo sư.[8]

Không lâu sau đó, cuộc đời của Ramakrishna kết thúc dưới dạng ung thư cuống họng vào tháng 8 năm 1886. Sau sự kiện này Narendra và một nhóm nòng cốt của các đệ tử của Ramakrishna thề trở thành tu sỹ và từ bỏ tất cả, và bắt đầu sống ở một căn nhà được xem như là bị ma ám tại Baranagore. Họ nhận của bố thí để thỏa mãn cái đói và các nhu cầu khác được lo bởi các cư sĩ giàu có của Ramakrishna.

Lang thang khắp Ấn Độ

Không lâu sau đó, những khất sĩ trẻ của xứ Baranagore muốn sống đời xuất gia lang thang với áo quần sờn rách và bát khất thực mà không có một của cải nào khác cả. Vào tháng 7 năm 1890, Vivekananda khởi hành một chuyến đi dài, mà không biết là cuộc du hành sẽ đưa mình về nơi nào. Cuộc du hành theo sau đó đã đưa ông đi khắp chiều dài và chiều rộng của tiểu lục địa Ấn Độ. Trong những ngày này, Vivekananda mang nhiều tên khác nhau như là Vividishananda, Satchidananda, v.v, Người ta cho rằng ông được gọi bằng tên Vivekananda bởi vua xứ Khetri cho những nhận thức sáng suốt của ông về sự vật, tốt và xấu.

Trong những ngày lang thang này, Vivekananda đã ngụ lại dinh thự của vua chúa, cũng như trong túp lều của người nghèo khổ. Ông đã có dịp tiếp cận khá gần với văn hóa của nhiều vùng khác nhau khác nhau của Ấn Độ và nhiều tầng lớp người khác nhau ở Ấn Độ. Vivekananda quan sát thấy sự bất công trong xã hội và sự tàn bạo trên danh nghĩa giai cấp xã hội (caste). Ông nhận ra nhu cầu canh tân hóa ở tầm vóc toàn quốc nếu như Ấn Độ muốn tồn tại. Ông đến Kanyakumari, cực nam tiểu lục địa Ấn Độ vào ngày 24 tháng 12 1892. Nơi đó, ông bơi qua biển và bắt đầu thiền định trên một tảng đá đơn độc. Do đó ông thiền trong suốt ba ngày và sau này nói là thiền về quá khứ, hiện tại và tương lai của Ấn Độ. Tảng đá sau này trở thành đài tưởng niệm Vivekananda tại Kanyakumari.

Vivekananda đến Madras và nói về những dự định của ông cho Ấn Độ và Ấn Độ giáo với các bạn trẻ ở Madras. Họ rất khâm phục vị xuất sĩ và khuyến khích ông hãy đi tới Hoa Kỳ và đại diện cho Ấn Độ giáo trong Hội nghị Quốc tế về các tôn giáo (World Parliament of Religions). Do đó, với sự giúp đỡ của các bạn ông ở Madras, các tiểu vương xứ Ramnad, Mysore và Khetri, Vivekananda bắt đầu chuyến du hành đến Mỹ.

Ở phương Tây

Vivekananda được đón nhận nồng nhiệt tại Hội nghị các Tôn giáo quốc tế năm 1893Chicago, Illinois, nơi ông đã có một loạt các bài giảng. Ông cũng được vỗ tay nồng nhiệt khi bắt đầu bài nói chuyện của mình bằng các từ nổi tiếng, "Các anh chị em của nước Mỹ." Chuyến đến đi đến Mỹ của Vivekananda được xem bởi nhiều người như là cột mốc đánh giá sự bắt đầu chú ý đến Ấn Độ giáo của người phương Tây không chỉ đơn thuần là một tập tục lạ lùng từ phương đông, nhưng như là một truyền thống triết học và tôn giáo sống động mà thực ra có thể có một vài thứ quan trọng để dạy cho người phương Tây. Chỉ trong một vài năm của Hội nghị, ông đã bắt đầu các trung tâm Vedantic ở New York CityLondon, nói chuyện ở nhiều đại học lớn và khơi dậy sự chú ý đến Ấn Độ giáo của người phương Tây. Thành công của ông không phải là không có những điều tranh cãi, đa số là từ những đoàn truyền giáo của Thiên Chúa Giáo mà ông hết sức chỉ trích. Sau bốn năm du hành, diễn thuyết và ẩn dật ở phương Tây, ông quay trở lại Ấn Độ vào năm 1897.

Trở lại Ấn Độ

Những người hâm mộ và các tín đồ của Vivekananda đã tổ chức tiếp đón trọng thể khi ông quay trở lại Ấn Độ. Ở Ấn Độ, ông đã có một loạt các bài giảng, và tập hợp các bài giảng này được biết đến như là "Các bài giảng từ Colombo đến Almora" và được xem là đã nâng cao tinh thần của xã hội Ấn Độ bị áp bức lúc đó. Ông thành lập Hội truyền giáo Ramakrishna. Hội này bây giờ là một trong các dòng tu lớn nhất của xã hội Ấn Độ giáoẤn Độ.

Tuy nhiên, ông phải chịu nhiều chỉ trích gay gắt của các nhà bảo thủ Ấn Độ guíao bởi vì đã du hành sang—cái mà họ cảm nhận như là—phương Tây không trong sạch. Những người đương thời cũng nghi vấn về động cơ hành động của ông, tự hỏi rằng liệu là danh vọng và hào quang của sự truyền bá Ấn Độ giáo đã thỏa hiệp với những lời thề nguyện ban đầu của ông khi bước vào dòng tu. Sự nhiệt tình của ông về Hoa Kỳ và nước Anh, và sự thành tâm về tôn giáo của ông đối với quê mẹ, đã tạo nên nhiều căng thẳng đáng kể trong những năm tháng cuối cùng của ông.

Ông du hành sang phương Tây một lần nữa từ tháng 1 năm 1899 đến tháng 12 năm 1900.

Qua đời

Svāmī Vivekānanda viên tịch ngày 4 tháng 7 năm 1902.[9] Ngày hôm đó ông dậy rất sớm, đến điện thờ ở Belur. Thông thường ông bảo mở hết các cửa, nhưng lần này ông đóng cửa sổ và khóa các cửa ra vào. Ông thiền định một mình từ 8 đến 11 giờ sáng, rồi ông giảng về trường phái Shukla-Yajur-Veda, văn phạm tiếng Phạn và triết lý yoga cho môn đệ.[10][11][12] Sau đó ông thảo luận với các đạo hữu về dự án đại học Veda của Hiệp hội Ramakrishna. Lúc 7:00 tối. Vivekananda về phòng, đuổi hết đệ tử, yêu cầu họ không làm phiền.[10] Đến 9:20 tối, ông viên tịch trong khi thiền tịch.[13] Các môn sinh của ông thấy ông có mấy giọt máu chảy ra ở mũi, miệng và mắt. Họ tin là ông đã đạt được đại định (mahasamādhi), làm khai mở vùng luân xa vương miện (brahmarandhra) dẫn đến đứt mạch máu trong não ông[14].[15][12] Lời tiên tri của Vivekananda: ""Tôi không sống đến bốn mươi tuổi đâu" đã trở thành hiện thực.[16][12] Ông được hỏa thiêu trên một dàn hỏa táng dựng lên bằng gỗ chiên đàn, bên bờ sông Hằng tại Belur, đối diện với nơi thầy ông là Ramakrishna được hỏa táng 16 năm trước.[17]

Liên quan